Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc: Người con Nghệ An trọn đời vì nước, vì dân
Đã gần một thế kỷ kể từ ngày cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc qua đời (1862 - 1929). Mỗi khi nhắc về Cụ, chúng ta càng kính trọng, biết ơn một người tài năng, đức độ, một nhân cách lớn. Người đã có công sinh thành, dưỡng dục nên một vĩ nhân: Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách mạng thế giới.
NHÀ NHO TÀI NĂNG, ĐỨC ĐỘ
Cụ Nguyễn Sinh Sắc sinh năm 1862 ở Làng Sen, nay thuộc xã Kim Liên, tỉnh Nghệ An. Cha mẹ mất sớm, khi 16 tuổi, Cụ được nhà nho Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (tức làng Chùa, cũng thuộc xã Kim Liên) nhận nuôi và cho ăn học.
![]() |
Vốn thông minh, hiếu học, Cụ sớm trở thành học trò giỏi có tiếng, được tôn là một trong “Nam Đàn tứ hổ” (gồm: Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Trần Văn Lương và Nguyễn Sinh Sắc). Năm 22 tuổi, Cụ được cha mẹ nuôi gả con gái là Hoàng Thị Loan.
Năm 1894, Cụ đỗ cử nhân. Năm sau, Cụ vào Huế thi hội nhưng không đỗ. Không nản chí, Cụ xin làm Hành tẩu Bộ Hộ; đồng thời, vào học Trường Quốc Tử Giám, quyết theo đuổi khoa cử. Cụ Loan đưa 2 con trai là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung vào Huế ở cùng chồng, để lại con gái cả là Nguyễn Thị Thanh ở quê chăm sóc bà ngoại.
Ngày ngày, Cụ Loan tần tảo quay tơ dệt vải, kiếm tiền giúp chồng dùi mài kinh sử và nuôi con ăn học. Năm 1901, cụ Loan lâm bệnh rồi qua đời sau khi sinh con trai út Nguyễn Sinh Nhuận (cũng mất sau đó ít ngày). Cùng năm ấy, Cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng.
Thời gian đầu sau khi đỗ Phó bảng, cụ Nguyễn Sinh Sắc từ chối ra làm quan, sống thanh đạm bằng nghề dạy học, ngày ngày nghiên cứu tân thư, nuôi dạy con cái và kết bạn với sĩ phu yêu nước...
Năm 1906, cụ Nguyễn Sinh Sắc nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ, làm quan triều đình nhưng Cụ cho rằng: “Quan trường là nô lệ trong đám nô lệ, càng nô lệ hơn”, “trung quân không phải là ái quốc, mà ái quốc là ái dân”.
Cụ thường dạy các con: “Chớ lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình”. Cụ dạy con nghiêm khắc nhưng cũng rất tôn trọng con cái. Vốn tán thành chủ trương canh tân của Phan Chu Trinh, từ năm 1905, Cụ đã cho 2 con trai Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung theo học Trường Tiểu học Pháp Việt ở Đông Ba, Huế.
Năm 1909, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được bổ nhiệm làm Tri huyện Bình Khê (tỉnh Bình Định). Làm Tri huyện nhưng Cụ thường giao du với các nhà nho yêu nước, bênh vực người nghèo, căm ghét cường hào bức hiếp nông dân.
Đầu năm 1910, nhân việc Cụ cho bắt giam một tên cường hào, sau khi thả ra ít lâu thì tên này chết, Cụ bị triều đình xử phạt, giáng chức. Cụ bèn từ quan rồi chu du các tỉnh phía Nam, vừa kiếm sống vừa liên hệ, gặp gỡ các chí sĩ yêu nước (trong đó có Phan Chu Trinh) nhằm chắp nối, tìm cách cho con trai ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
TRỌN ĐỜI VÌ NƯỚC, VÌ DÂN
Sau khi Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng, Sài Gòn (ngày 5-6-1911) để bắt đầu hành trình cứu nước trên con tàu Đô Đốc Latouche Tréville, cụ Nguyễn Sinh Sắc tiếp tục bôn ba khắp Nam kỳ, sang tận Campuchia, vừa làm công việc chữa bệnh cứu người, vừa trông ngóng tin con.
Đi đến đâu Cụ cũng tìm cách liên hệ với các nhà sư, nhà nho yêu nước, chính trị phạm tham gia phong trào Cần Vương, Đông Du, Duy Tân bị an trí hoặc đang lẩn tránh mật thám Pháp... Cụ giúp nhiều chùa chú giải kinh sách, góp ý kiến cho phong trào Chấn hưng Phật giáo. Một số chùa ở Nam bộ hiện còn lưu bút tích và câu đối của Cụ.
![]() |
Khu mộ Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc tại phường Cao Lãnh. Ảnh: M.X |
Cuối năm 1916, qua gặp gỡ một số nhân sĩ, trong đó có cả học trò cũ của mình ở Sài Gòn, cụ Nguyễn Sinh Sắc được giới thiệu với ông Hội đồng Hiển (Lê Quang Hiển), người Cao Lãnh, bấy giờ thuộc tỉnh Sa Đéc.
Qua đàm đạo, Cụ có cảm tình với mảnh đất và con người Cao Lãnh nên năm 1917 Cụ theo ông Hiển về đây. Ở Cao Lãnh, Cụ gặp con trai một người quen cũ là ông Trần Bá Lê (Cả Nhì Ngưu), vốn là điền chủ yêu nước, từng đóng góp tiền bạc cho phong trào Đông Du sau bị thực dân Pháp bắt, tịch thu gia sản nên đã phải bán nhà cửa, ruộng vườn để lo lót, tránh tù tội. Ông Lê dựng cho Cụ một ngôi nhà nhỏ trên đất vườn nhà.
Hằng ngày, ngoài việc bốc thuốc, chữa bệnh cho người dân, Cụ giao tiếp với các thân hào, nhân sĩ, nhà nho yêu nước như: Lê Văn Đáng (Chánh nhất Đáng), Võ Hoành (Cử Hoành) nhưng Cụ chỉ ở đây một thời gian ngắn.
Đến năm 1919 thì Cụ rời Cao Lãnh, tiếp tục tới nhiều tỉnh, thành Nam bộ để gặp gỡ những người đồng chí hướng và truyền bá tư tưởng yêu nước. Qua các nhân sĩ như: Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh..., Cụ biết được nhân vật Nguyễn Ái Quốc nổi tiếng lúc này chính là Nguyễn Tất Thành. Do có quan hệ với tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Đồng bằng sông Cửu Long nên Cụ bị mật thám theo dõi nhưng chúng không có đủ chứng cứ để bắt giam Cụ.
Ở Cao Lãnh, thường ngày, buổi sáng, theo con đường mòn, ngang chùa Hòa Long, qua cây cầu nhỏ bắc ngang rạch Ông Rượu, Cụ đi bộ ra chợ Cao Lãnh xem mạch, ra toa ở tiệm thuốc Hằng An Đường, chiều ở nhà làm thuốc hoặc đi thăm bệnh. Người giàu, Cụ lấy tiền, người nghèo, Cụ xem mạch và hốt thuốc không lấy tiền. Bà con làng Hòa An cảm mến và quý trọng Cụ là một nhà nho, một ông thầy thuốc giỏi, có lòng thương người. Dù tuổi cao, nhưng Cụ không cho phép mình nghỉ ngơi, Cụ tìm cách vận động thanh niên tham gia phong trào yêu nước. Cụ Đáng mang thuốc của Cụ chế ra đi bán quanh các vùng Cao Lãnh (Phong Mỹ, Cái Dầu, Ba Răng, cù lao Tây, Đốc Vàng, Chợ Mới, Đất Sét, Cái Tàu...) để tuyên truyền, vận động thanh niên tham gia phong trào yêu nước. Hoạt động của 2 Cụ cùng với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã góp phần đưa phong trào yêu nước ở Cao Lãnh bước sang một thời kỳ mới. |
Đến năm 1927, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc mới quyết định chọn về sống, hoạt động và gắn bó lâu dài với Cao Lãnh. Khi trở về, Cụ ở nhà ông Lê Văn Giáo (Năm Giáo), bên bờ rạch Cái Tôm ở làng Hòa An (nay thuộc phường Cao Lãnh). Ở đây, cụ Nguyễn Sinh Sắc và Lê Văn Đáng thường vận động thanh niên tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Nhóm thanh niên yêu nước, đứng đầu là Phạm Hữu Lầu, Lưu Kim Phong thường tiếp xúc với Cụ. Cụ khuyên họ: “Mấy cậu là niềm hy vọng của tôi, là tương lai của Tổ quốc. Ngày nay, nước mất nhà tan, chúng ta phải đứng lên góp sức đập phá xiềng gông nô lệ, không nên nai lưng lòn cúi, run sợ trước cường quyền”.
Có thể nói, hoạt động của 2 Cụ góp phần cùng nhóm Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đưa Nhân dân Cao lãnh bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ chuyển tiếp giữa chủ nghĩa yêu nước với việc hình thành một bộ phận tiền thân của chính đảng cách mạng ở địa phương.
Khoảng tháng 10-1929, đồng chí Phạm Hữu Lầu, Tổ trưởng Tổ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Hòa An, là người đầu tiên được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng; lễ kết nạp được tổ chức tại nhà ông Cả nhì Ngưu, người đứng ra công nhận là đồng chí Ung Văn Khiêm.
Tháng 11-1929, Tổ Việt Nam Cách mạng Thanh niên Hòa An được công nhận là Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng, lễ công nhận được tổ chức tại Vườn Mù U (làng Hòa An), dưới sự chủ trì của đồng chí Ung Văn Khiêm.
Cuối tháng 11-1929, Cụ lâm trọng bệnh. Cụ Đáng bố trí người đưa Cụ xuống Sa Đéc cho cụ Võ Hoành chữa trị. Là thầy thuốc, Cụ biết rõ sức khỏe của mình; hơn nữa, cụ Võ Hoành là một chính trị phạm đang bị an trí, nếu Cụ ở lâu trong nhà cụ Hoành thì rất bất lợi cho cụ Hoành nên Cụ báo tin cho cụ Đáng, rước Cụ về Cao Lãnh. Mấy ngày sau, cụ Đáng mượn chiếc ghe có mui của Hương bộ Cây giao cho Bảy Mân, Hai Thiện, Bảy Đước (đều là hội viên Nông hội đỏ) xuống Sa Đéc rước Cụ.
Về đến Cao Lãnh, do không muốn phiền bà con khi mình qua đời, Cụ bảo với Bảy Mân đưa Cụ về chùa Hòa Long. Nhờ cụ Đáng thuyết phục khá lâu, Cụ mới chịu cho chở về nhà ông Năm Giáo. Đông đảo bà con và các thanh niên trong tổ Nông hội đỏ, đặc biệt là cụ Đáng và ông Năm Giáo ngày đêm túc trực chăm sóc Cụ.
Bà con trong vùng hay tin Cụ bệnh đến thăm rất đông. Do tuổi cao và bệnh nặng, Cụ qua đời vào đêm 26 rạng 27-11-1929 (nhằm đêm 26 rạng 27 tháng 10 năm Kỷ Tỵ), thọ 67 tuổi. Sau khi mất, Cụ được đồng bào làng Hòa An an táng bên cạnh Miễu Trời Sanh (tức chùa Hòa Long ngày nay). Sau đó, bà Nguyễn Thị Thanh (con gái Cụ Sắc) đã vào Hòa An để làm lễ tang và tạ ơn bà con đã chăm sóc Cụ chu đáo, trọn tình vẹn nghĩa.
HỒNG LÊ
(tổng hợp)