Thứ Tư, 19/11/2025, 15:55 (GMT+7)
.

Suy thận không còn là bệnh hiếm

Trước đây, khi nhắc đến suy thận, chúng ta thường liên tưởng đến một căn bệnh hiếm gặp và chỉ thường thấy ở những người cao tuổi có nhiều bệnh nền. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc thực tế của bệnh thận mạn ở các giai đoạn trong dân số người Việt Nam là từ 10% - 14% và trải dài trong nhiều nhóm tuổi, kể cả người trẻ. 

Theo thống kê gần đây tại Bệnh viện Bạch Mai, số bệnh nhân đến khám vì bệnh thận mạn ngày càng gia tăng và ngày càng trẻ hóa với nhiều trường hợp bệnh nhân dưới 30 tuổi. Điều này đồng nghĩa sẽ có hàng triệu người có nguy cơ chạy thận nhân tạo hoặc ghép thận trong thời gian tới.

Bệnh nhân suy thận mạn tính chạy thận nhân tạo tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang.   Ảnh: THỦY HÀ
Bệnh nhân suy thận mạn tính chạy thận nhân tạo tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang. Ảnh: THỦY HÀ

Một vấn đề đáng lo ngại là bên cạnh tỷ lệ người mắc cao chính là bệnh thận mạn giai đoạn đầu thường không biểu hiện triệu chứng, mà hầu hết các bệnh nhân phát hiện bệnh khi đã vào giai đoạn cuối cần chạy thận nhân tạo với chi phí điều trị đắt đỏ và tiên lượng sống không cao.

Suy thận là tình trạng suy giảm chức năng của thận, tiến triển nặng dần theo thời gian và không hồi phục. Mức độ suy giảm chức năng thận được phân chia thành 5 giai đoạn (từ giai đoạn 1 - 5), với mức độ tổn thương thận tăng dần.

Chức năng được biết đến nhiều nhất của thận là lọc và đào thải các chất độc, thuốc và các chất thải ra khỏi cơ thể. Khi thận bị tổn thương, khả năng lọc của thận bị suy giảm và khi suy giảm đến một mức độ nhất định, các chất độc đối với cơ thể bị tồn đọng và gây hại cho sức khỏe và đó là lúc cơ thể cần được lọc máu định kỳ (hay còn được gọi là chạy thận nhân tạo).

Tăng huyết áp và đái tháo đường là 2 nguyên nhân hàng đầu gây suy thận. Một nhóm nguyên nhân khác gây suy thận là sử dụng nhiều “chất độc thận” điển hình như: Một số loại thuốc, kháng sinh, “thuốc Nam, thuốc Bắc” không rõ nguồn gốc và thành phần…. có thể gây tổn thương thận không hồi phục, một số nguyên nhân nhiễm trùng hệ tiết niệu nặng cũng có khả năng gây những tổn thương lên thận và có khả năng gây suy thận về sau.

Các triệu chứng cần nghi ngờ bệnh thận mạn như: Phù mắt cá và mu bàn chân, phù mi mắt vào buổi sáng, nước tiểu có nhiều bọt, lâu tan….

hi người bệnh có các dấu hiệu này, đặc biệt là các bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp, đái tháo đường nên đến cơ sở y tế để thực hiện kiểm tra chức năng thận.

Phần lớn các bệnh nhân mắc bệnh thận mạn trong dân số, đặc biệt là những người lao động trẻ được phát hiện tình cờ qua khám sức khỏe định kỳ, khám sức khỏe tổng quát…. mà không có biểu hiện triệu chứng của bệnh. 

Nguyên nhân gây suy thận ở nhóm người trẻ từ 20 - 30 tuổi có thể liên quan đến thói quen sử dụng rượu, bia, hút thuốc lá, uống nước ngọt có gas, ăn những loại thực phẩm chế biến sẵn chứa nhiều muối và chất béo…. và một số nguyên nhân bất thường bẩm sinh của thận: Các bệnh nhân có cấu trúc hệ tiết niệu bất thường, chỉ có 1 thận đơn độc có nguy cơ mắc suy thận cao hơn so với dân số còn lại.

Các triệu chứng của bệnh thận mạn giai đoạn sớm thường rất mơ hồ vì khả năng hoạt động bù trừ của thận rất cao, do vậy đa số các bệnh nhân có suy thận giai đoạn sớm không nhận thấy triệu chứng bất thường. Một số dấu hiệu bệnh thận mạn như: Mệt mỏi, chán ăn, suy nhược cơ thể, khó tập trung làm việc, đau đầu, chóng mặt, da khô, hay ngứa….  rất không đặc hiệu cho một bệnh lý riêng biệt nào. 

Suy thận là một gánh nặng lớn đối với cá nhân, gia đình và xã hội, tuy nhiên, về mặt tích cực, bệnh thận mạn hoàn toàn có thể dự phòng, phát hiện sớm và kiểm soát tốt. Ngoài các nguyên nhân bẩm sinh gây bất thường chức năng thận, bệnh thận mạn hoàn toàn có thể phòng ngừa như: Hạn chế sử dụng rượu, bia, thuốc lá, đồ ăn chế biến sẵn, ăn mặn, phòng ngừa tăng huyết áp, đái tháo đường, không tự ý sử dụng các loại thuốc khi không có chỉ định của bác sĩ và khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm bệnh thận mạn.

BẢO TRÂN 

.
.
.