Bài 1: Nơi lưu giữ giá trị văn hóa
Trước nguy cơ mai một của một số nghề, làng nghề truyền thống, thời gian qua, các sở, ngành, địa phương trong tỉnh Đồng Tháp có những định hướng, giải pháp cũng như chính sách về bảo tồn và khơi dậy tiềm năng phát triển. Từ đó, gìn giữ nét văn hóa, mang lại thu nhập ổn định cho người dân, đưa nghề và làng nghề truyền thống trở thành “mảnh ghép” không thể thiếu trong bức tranh kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần quảng bá hình ảnh về vùng đất, con người địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung.
Đồng Tháp, không chỉ thu hút du khách bởi những di tích lịch sử và nhịp sống sôi động, mà còn từ những làng nghề truyền thống lưu giữ nét văn hóa đặc sắc lâu đời. Thăm các làng nghề: Đóng tủ thờ Gò Công; Làng nghề đóng xuồng, ghe rạch Bà Đài; Làng chiếu Định Yên, Long Định; nghề chạm khắc gỗ Lương Hòa Lạc hay nghề dệt choàng…, mọi người được sống lại không khí của vùng nông thôn Nam bộ mộc mạc, tinh tế và đầy sáng tạo.
Làng nghề truyền thống ở Đồng Tháp không chỉ là nơi sản xuất các sản phẩm phục vụ đời sống, mà còn là điểm đến trải nghiệm độc đáo dành cho những ai yêu thích văn hóa bản địa.
NÉT ĐẶC TRƯNG RIÊNG
Nghề dệt choàng (dệt khăn rằn) ở xã Long Khánh được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Qua hơn 100 năm hình thành và phát triển, trải qua nhiều thăng trầm, đến nay, làng nghề vẫn duy trì và gìn giữ những nét văn hóa, truyền thống tốt đẹp.
![]() |
Ông Trương Văn Thuận, Tổ trưởng Tổ hợp tác Sản xuất hủ tiếu Mỹ Tho phơi bánh hủ tiếu. |
Khăn rằn cùng với chiếc áo bà ba trở thành hình ảnh gần gũi, như là biểu tượng cho người phụ nữ Đồng bằng sông Cửu Long cần cù, chịu thương, chịu khó từ bao đời nay.
Riêng với Đồng Tháp, khăn rằn rất đỗi quen thuộc trong đời sống sinh hoạt, lao động của người dân; đồng thời, cũng là sản phẩm quà tặng du lịch đặc trưng được yêu thích. Theo người dân địa phương, làng nghề phát triển cực thịnh vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX; cung cấp khăn rằn truyền thống cho nhân công cắt lúa, cấy lúa ngoài đồng.
Do tính tiện dụng như lau mồ hôi, che nắng, chống bụi nên khăn rằn không thể thiếu đối với đời sống, sinh hoạt của nông dân. Hiện có gần 60 hộ làm nghề dệt khăn rằn với hàng trăm khung dệt; tạo việc làm cho hơn 300 lao động địa phương. Hằng năm, làng nghề sản xuất, cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước hơn 5 triệu chiếc khăn rằn các loại.
Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, khó khăn, nghề đóng tủ thờ Gò Công ngày nay trở thành làng nghề truyền thống, không chỉ nổi tiếng khắp miền Nam - Bắc, mà còn vươn ra ngoài nước. Qua bàn tay khéo léo, điêu luyện của các nghệ nhân, những tấm gỗ vốn vô tri vô giác phút chốc trở thành sản phẩm có giá trị cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.
![]() |
Ông Nguyễn Văn Tốt (thường gọi Bảy Tốt) cho biết, gia đình ông có 4 đời theo nghề đóng xuồng, ghe. |
Khi nhắc đến tủ thờ Gò Công, nhiều người nghĩ ngay đến thương hiệu Ba Đức. Ông Ngô Tấn Thành (thường gọi là Tám Nhựt), người con thứ tám của ông Ba Đức chia sẻ, gia đình ông có 9 anh em đều mở cơ sở sản xuất và bày bán sản phẩm tủ thờ, tất cả đều lấy thương hiệu Ba Đức. Tên tuổi của tủ thờ Gò Công ngày càng vươn xa và trở thành niềm tự hào cho người dân nơi đây. Ông Tám Nhựt tự hào sản phẩm tủ thờ thương hiệu Ba Đức được Việt kiều ở Mỹ, Canada, Úc và Pháp ưa chuộng.
Đặc biệt, năm 2016, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong một lần về Tiền Giang (cũ) đã ghé thăm, động viên các cơ sở sản xuất tủ thờ nơi đây giữ gìn và phát triển làng nghề truyền thống. Tủ thờ Gò Công có ý nghĩa trong đời sống tinh thần và tâm linh của người dân.
Trong nhiều gia đình người Việt ở nông thôn cũng như thành thị, tủ thờ Gò Công được đặt trang trọng ở gian nhà, thể hiện tấm lòng, tình cảm thiêng liêng của người thân đối với những người đã khuất. Ngoài mục đích thờ cúng ông bà tổ tiên, tủ thờ còn là nơi để cất giữ đồ vật quý giá; đồng thời, còn là vật trang trí, góp phần tạo nên không gian sang trọng của ngôi nhà.
Rời vùng phía Đông, đến với phía Tây của tỉnh Đồng Tháp, nơi có Làng nghề đóng xuồng, ghe rạch Bà Đài (xã Long Hòa), chúng tôi như lạc vào không gian làng quê thanh bình nhưng đầy sức sống với âm thanh rộn ràng của tiếng cưa, đóng gỗ vang lên khắp nơi.
Ông Nguyễn Văn Tốt (thường gọi là Bảy Tốt) cho biết, gia đình ông có 4 đời làm nghề đóng xuồng, ghe. Những năm 70 của thế kỷ trước, nghề này rất hưng thịnh, ven rạch Bà Đài có hơn 200 hộ làm nghề đóng xuồng, ghe.
Thời hưng thịnh, mỗi năm; xã Long Hòa xuất bán cả chục ngàn chiếc xuồng, ghe. Sản phẩm xuồng cui, ghe tam bản, ghe chài, tắc ráng mang thương hiệu Bà Đài không chỉ bán khắp vùng sông nước miền Tây Nam bộ, mà còn sang tận Campuchia.
Tiếng thơm làng nghề lan truyền cho đến ngày nay. Không thể đứng nhìn làng nghề truyền thống của quê hương dần mai một, những người thợ ở đây bắt đầu nhận đóng thêm xuồng du lịch, nghiên cứu và đóng ra xuồng mini nhỏ gọn, nguyên mẫu như xuồng lớn để lưu giữ và quảng bá cho du khách. Xuồng mini được thị trường đón nhận, nhất là các quán ăn, nhà hàng, các điểm du lịch đặt mua; mở ra triển vọng mới cho nghề đóng xuồng, ghe truyền thống ở rạch Bà Đài.
ĐẬM ĐÀ HƯƠNG VỊ QUÊ HƯƠNG
Nhắc tới Đồng Tháp là nhớ đến lúa - gạo với những cánh đồng bạc ngàn. Bằng tinh thần sáng tạo và cần cù, người dân Đồng Tháp không chỉ sản xuất ra những hạt gạo trắng chắc, mà còn làm nhiều món ăn từ bột gạo.
![]() |
Ông Ngô Tấn Thành (bên trái), người con thứ tám của ông Ba Đức chia sẻ, gia đình ông có 9 anh em đều mở cơ sở sản xuất và bày bán sản phẩm tủ thờ, tất cả đều lấy thương hiệu Ba Đức. |
Trong đó, hủ tiếu Mỹ Tho, được nhiều chuyên gia văn hóa và ẩm thực cho rằng, hơn cả một món ăn, hủ tiếu Mỹ Tho còn là câu chuyện lịch sử, văn hóa và sự sáng tạo liên tục qua nhiều thế hệ. Hủ tiếu Mỹ Tho có tự bao giờ không ai nhớ rõ, nhưng theo các bậc cao niên, sợi hủ tiếu này xuất hiện vào đầu thập niên 50, 60 của thế kỷ XX.
Hủ tiếu Mỹ Tho sử dụng gạo Gò Cát, một giống lúa nổi tiếng của tỉnh. Gạo này cho ra sợi hủ tiếu trắng, mịn, có độ dai và mùi thơm đặc trưng. Ông Trương Văn Thuận, Tổ trưởng Tổ hợp tác Sản xuất hủ tiếu Mỹ Tho (khu phố Hội Gia, phường Mỹ Phong) cho biết, ông gắn bó với nghề làm hủ tiếu từ năm 1983, ban đầu chỉ làm thủ công. Qua tìm hiểu và học hỏi từ bạn bè, ông Thuận mở Cơ sở sản xuất bánh hủ tiếu tại nhà và dần chuyển sang tự động hóa từ khâu xay bột, trộn bột đến tráng bánh, người thợ chỉ việc mang bánh đi phơi.
Dù đối mặt với nhiều thách thức, tương lai của hủ tiếu Mỹ Tho vẫn đầy hứa hẹn; bởi, đây không chỉ là một món ăn, mà còn là câu chuyện về sự giao thoa văn hóa, tài năng sáng tạo của người Việt và về tình yêu với nghề, với quê hương, xứ sở. Trong mỗi tô hủ tiếu, không chỉ có vị ngon của sợi hủ tiếu, vị ngọt của nước lèo, mà còn có cả hương vị của thời gian, của sự gìn giữ và phát triển qua bao thế hệ.
Truyền nối hơn trăm năm, năm 2024, nghề làm bột gạo danh tiếng Sa Đéc (phường Sa Đéc) trở thành Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Theo lãnh đạo phường Sa Đéc, hiện ở Sa Đéc, ngoài làng gạo có hàng trăm hộ sản xuất bột gạo, còn hình thành làng lúa, với hàng ngàn lao động. Bột Sa Đéc trắng mịn, dẻo thơm tạo nên các sản phẩm sau bột như bánh canh, nui, phở, bún, bánh tằm, ống hút..., đặc biệt là hủ tiếu Sa Đéc trứ danh.
Dù trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, nhưng với nhiều yếu tố tự nhiên thuận lợi, hơn một thế kỷ qua, con người nơi đây vẫn giữ gìn tạo nên sản phẩm bột gạo mang những giá trị riêng, khó có nơi nào sánh kịp, góp phần lưu giữ và phát huy làng nghề truyền thống nổi tiếng của địa phương.
PHƯƠNG MAI - CAO THẮNG
(còn tiếp)