Tăng giá trị sản xuất các ngành hàng chủ lực

Cập nhật ngày: 07/09/2021 06:05:54

ĐTO - Thực hiện Kết luận số 23, ngày 15/8/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa X về tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp và công tác giảm nghèo bền vững, tăng trưởng bình quân ngành nông nghiệp trong giai đoạn là 3,57%. Đến năm 2020, tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản chiếm 34,54% (năm 2015 là 39,9%) trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Quan điểm nhất quán của tỉnh là xây dựng các chuỗi ngành hàng chủ lực, dựa trên các yếu tố cốt lõi là “Hợp tác - Liên kết - Thị trường” và “Giảm chi phí - Tăng chất lượng - Chế biến tinh”. Nội dung của tái cơ cấu nông nghiệp mang tính thực tiễn, lấy tư tưởng phát triển chuỗi ngành hàng làm chủ đạo; xác định rõ 5 ngành hàng chủ lực: lúa gạo, xoài, hoa kiểng, cá tra và vịt dựa trên lợi thế so sánh, tiềm năng thị trường để tập trung phát triển.

Giá trị sản xuất (GTSX) ngành hàng lúa gạo đến năm 2020 đạt 15.724 tỷ đồng (tăng 1,77% so với năm 2015, tương ứng 273,2 tỷ đồng), chiếm 35,66% tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp (giảm 6,56% so với năm 2015). Ngành này đã đổi mới phương thức canh tác theo hướng bền vững và giảm chi phí, áp dụng biện pháp kỹ thuật tiên tiến, giúp lợi nhuận tăng 12,9 - 28,69 triệu đồng/ha; liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm có sự tham gia của 67 hợp tác xã (HTX), 82 tổ hợp tác (THT), 1 hội quán và 40 doanh nghiệp. Đồng thời phát triển chế biến sâu các sản phẩm sau gạo mang lại giá trị gia tăng cao; xây dựng thương hiệu, kết nối và phân phối vào các hệ thống bán lẻ lớn trong cả nước như: Co.opmart, Big C, Satra, Tứ Sơn, Vinmart, Lotte, Aeon,...

GTSX ngành hàng xoài đến năm 2020 đạt 2.009 tỷ đồng (tăng 28,2% so năm 2015, tương ứng giá trị 442,4 tỷ đồng), chiếm 4,65% tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp (tăng 0,27% so với năm 2015). Nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, thu hoạch, xử lý sau thu hoạch và chế biến đã nâng cao năng suất, chất lượng xoài tươi, các sản phẩm giá trị gia tăng từ xoài giúp lợi nhuận chuỗi tăng 30-40%. Toàn tỉnh có 10 HTX, 43 THT và 28 hội quán nông dân tham gia sản xuất xoài. Sản phẩm đạt chứng nhận nhãn hiệu “Xoài Cát Chu Cao Lãnh và Xoài Cao Lãnh” và chỉ dẫn địa lý “Cao Lãnh” cho sản phẩm xoài; có 158,35ha sản xuất xoài theo hướng GAP; cấp 117 mã vùng tương ứng diện tích 5.214,84ha đáp ứng yêu cầu xuất khẩu cho các thị trường khó tính và thị trường chủ yếu Trung Quốc; ứng dụng công nghệ Blockchain để truy xuất nguồn gốc.

Đối với hoa kiểng đến năm 2020 đạt GTSX 4.656 tỷ đồng (tăng 3.472 tỷ đồng, tương ứng 293% so với năm 2015), chiếm 10,56% tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp (tăng 7,32% so với năm 2015), lợi nhuận bình quân hằng năm đạt từ 300 - 500 triệu đồng/ha. Ngành hoa kiểng có 4 HTX, 27 THT, 11 hội quán tạo được sự kết nối giữa nông dân và doanh nghiệp, gắn với phát triển du lịch, đặc biệt các mô hình du lịch trải nghiệm tại Làng hoa Sa Đéc. Sự phát triển của ngành hàng hoa kiểng đã thật sự lan tỏa đến các địa phương khác giúp người dân có lợi nhuận cao hơn trên một đơn vị diện tích trồng trọt. Qua đó, ngành hàng hoa kiểng được nhiều doanh nghiệp quan tâm đến đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, ứng dụng khoa học công nghệ,...

Đến năm 2020, GTSX ngành hàng cá tra đạt 7.419,9 tỷ đồng (tăng 13,8% so với năm 2015, tương ứng 898 tỷ đồng), chiếm 16,83% tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp (giảm 0,99% so với năm 2015). Người nuôi áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến và quản lý chất lượng hiệu quả (VietGAP, Global GAP, ASC và tương đương), giúp lợi nhuận thu được bình quân hằng năm đạt hơn 500 triệu đồng/ha; được cấp 368 mã số nhận diện ao nuôi cá tra thương phẩm (1.509,2ha) để truy xuất nguồn gốc. Phát triển chuỗi liên kết sản xuất và chế biến xuất khẩu gồm 20 doanh nghiệp chế biến (chiếm khoảng 60% diện tích nuôi), 2 doanh nghiệp nuôi, 2 HTX, 1 THT và 1 hội quán hoạt động sản xuất và dịch vụ phục vụ ngành hàng cá tra; có đến 96% sản phẩm từ cá tra được xuất đi các thị trường quốc tế (khoảng 134 quốc gia, vùng, lãnh thổ), gồm 2 nhóm chính: dòng sản phẩm sơ chế và dòng sản phẩm giá trị gia tăng.

Ngành hàng vịt năm 2020 đạt GTSX 721,7 tỷ đồng (tăng 31,9% so năm 2015, tương đương 174,4 tỷ đồng), chiếm 1,64% tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp (tăng 0,14% so với năm 2015). Tỉnh tập trung thay đổi tập quán sản xuất từ nuôi vịt chạy đồng nhiều rủi ro sang nuôi nhốt, cho thấy hiệu quả kinh tế cao hơn nhưng lợi nhuận những năm gần đây không ổn định và mô hình chưa được duy trì bền vững là do chưa liên kết chuỗi bền vững và giá trứng vịt bấp bênh. Năm 2018, Cơ sở Út Mới đạt chuẩn GAP, được cấp mã truy xuất nguồn gốc khi vào thị trường thành phố Hồ Chí Minh.

TN

< Trở về trang trước
Gửi bình luận của bạn